Cache dịch ra tiếng Việt có thể xem là “bộ nhớ đệm”, nhưng từ này sẽ không diễn tả đầy đủ ý nghĩa nên trong bài này mình sẽ tiếp tục dùng chữ cache.Ngày xưa, ở thời hoang sơ của thế giới máy tính, tốc độ của cả CPU và RAM đều chậm nên cả hai có thể giao tiếp với nhau ở cùng tốc độ. Tưởng tượng giống như bạn và một người bạn nữa cùng chạy bộ, nếu hai bạn chạy cùng tốc độ với nhau thì hai bạn có thể thoải mái nói chuyện. Nhưng nếu người kia chạy nhanh hơn bạn thì làm sao mà nói. Đó là điều xảy ra khi tốc độ CPU bắt đầu nhanh lên khi mà công nghệ ngày càng phát triển, tiến bộ hơn, nhất là từ thập niên 1980.Thế nên người ta sinh ra một loại bộ nhớ tốc độ cao khác, nhanh hơn RAM, và có thể “chạy cùng” với CPU, đó là cache. Cache sẽ chứa dữ liệu để CPU cần thì có thể lấy vào xử lý, không phải “lội” xuống tận ổ cứng của bạn để lấy vì sẽ tốn thời gian hơn nhiều.
Đi ngược lại một chút, máy tính của bạn có nhiều “lớp” (layer) bộ nhớ. Lớp chậm nhất, chính là nơi lưu trữ dữ liệu vĩnh viễn (gọi là persistent storage, hay secondary storage), chi phí thấp, dung lượng cao, ví dụ như SSD, HDD. Lên một lớp nhanh hơn là RAM, chứa dữ liệu để CPU lấy vào tính toán, tốc độ nhanh hơn đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất cũng tăng. RAM thường được cấu thành từ nhiều chip nhớ thuộc loại Dynamic RAM (DRAM).Nhanh hơn cả RAM là cache, và cache thường nằm ngay trên đế CPU đối với những con chip hiện đại. Chúng gần ở CPU về khoảng cách vật lý, điều đó giúp cache có thể trao đổi dữ liệu cực kì hiệu quả. Nó lại cùng nằm trong cùng đế chip với các nhân xử lý nên rút ngắn thời gian gửi nhận tín hiệu. Cache dùng loại bộ nhớ gọi là Static RAM (SRAM). SRAM có tốc độ cao hơn so với DRAM và cũng dùng ít điện hơn.